ROE và ROA | 5 điểm khác biệt hàng đầu | (với Infographics)
Sự khác biệt giữa ROE và ROA
ROE là thước đo hiệu quả tài chính được tính bằng cách chia thu nhập ròng cho tổng vốn chủ sở hữu trong khi ROA là một loại tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư cho biết khả năng sinh lời so với tổng tài sản và xác định mức độ hoạt động của một công ty; nó được tính bằng cách chia lợi nhuận ròng với tổng tài sản.
Hai thông số quan trọng để phân tích một doanh nghiệp là ROE toàn thời gian và lợi tức trên tài sản (ROA).
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu và Tỷ suất sinh lời trên tài sản Các tỷ số này được gọi là tỷ suất sinh lời, vì chúng cho biết mức lợi nhuận do một doanh nghiệp tạo ra.
ROE là gì?
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu đo lường doanh nghiệp kiếm được bao nhiêu so với số vốn chủ sở hữu đưa vào doanh nghiệp. Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu là tỷ số được tính với thu nhập ròng là tử số và tổng vốn chủ sở hữu là mẫu số.
- Thu nhập ròng là một khoản mục trong báo cáo thu nhập, và tổng vốn chủ sở hữu đến từ bảng cân đối kế toán; đó là lý do tại sao để tính toán tỷ số, bình quân của vốn chủ sở hữu được xem xét.
- Một tỷ lệ cao hơn cho thấy rằng doanh nghiệp đang hoạt động tốt và họ có thể tạo ra một lượng lợi nhuận cao, với một mức đầu tư cụ thể dưới hình thức vốn chủ sở hữu.
- Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cũng được tính phổ biến bằng công thức DuPont. Phân tích DuPont là sự kết hợp của ba tỷ lệ, giúp xác định thông số nào dẫn đến việc tăng hoặc giảm ROE.
ROA là gì?
Tỷ suất sinh lời của tài sản là thước đo để đánh giá doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu lợi nhuận với số tổng tài sản đầu tư vào doanh nghiệp. Tỷ lệ này được đo bằng thu nhập ròng dưới dạng tử số và tổng tài sản là mẫu số.
- Theo một cách khác, phương pháp này đo lường doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu lợi nhuận với số tiền được đầu tư bởi các cổ đông ưu đãi của cổ đông vốn cổ phần và cả tổng đầu tư nợ.
- Tất cả các nhóm nhà đầu tư này cung cấp số tiền cần thiết cho tổng tài sản. Tổng tài sản được tài trợ bởi cả vốn chủ sở hữu và chủ nợ, cần phải cộng chi phí lãi vay vào thu nhập ròng, nằm trong tử số của tỷ lệ.
- Trong trường hợp ROA cũng như trong trường hợp ROE, tử số là mục báo cáo thu nhập và mẫu số là mục bảng cân đối kế toán. Đó là lý do tại sao giá trị trung bình của tổng tài sản được lấy ở mẫu số.
Đồ họa thông tin ROE so với ROA
Sự khác biệt quan trọng giữa ROA và ROE
Sau đây là những điểm khác biệt chính:
- Với sự trợ giúp của ROE, chúng ta có thể đo lường mức thu nhập của một doanh nghiệp đối với số vốn chủ sở hữu được đưa vào doanh nghiệp. Ngược lại, ROA cho chúng ta biết doanh nghiệp đang tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận với tổng số tài sản đầu tư vào doanh nghiệp.
- Trong khi tính ROE, thu nhập ròng là tử số, trong khi tổng vốn chủ sở hữu là mẫu số. Trong cách tính ROA, thu nhập ròng là tử số và tổng tài sản là mẫu số.
- Một cách khác để tính ROE là Phân tích DuPont, nhưng không có sẵn các thước đo như vậy để tính ROA.
- Đối với việc tính toán ROE, chúng tôi chỉ xem xét các nhà đầu tư vốn cổ phần, nhưng để tính toán ROA, tất cả các cổ đông vốn chủ sở hữu, cổ đông ưu đãi và tổng đầu tư nợ đều được tính đến.
- Trong khi tính toán ROE, không cần điều chỉnh tử số vì chỉ vốn chủ sở hữu được coi là mẫu số. Để tính toán ROA, điều cần thiết là phải cộng chi phí lãi vay vào tử số vì tổng tài sản được tài trợ bởi cả chủ sở hữu vốn chủ sở hữu và chủ nợ.
Bảng so sánh
Nền tảng | Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) | Tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA) | ||
Giới thiệu | Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu đo lường doanh nghiệp kiếm được bao nhiêu so với số vốn chủ sở hữu đưa vào doanh nghiệp. | Tỷ suất sinh lời của tài sản là thước đo để đánh giá doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu lợi nhuận với số tổng tài sản đầu tư vào doanh nghiệp. | ||
Sự khác biệt về mẫu số | Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu là tỷ số được tính với thu nhập ròng là tử số và tổng vốn chủ sở hữu là mẫu số. | Tỷ lệ này được đo bằng thu nhập ròng dưới dạng tử số và tổng tài sản là mẫu số. | ||
Phân tích DU Pont | ROE cũng được tính toán bằng cách sử dụng phân tích du Pont, giúp xác định liệu ROE đã tăng do tỷ suất lợi nhuận ròng hoặc đòn bẩy hay do sự gia tăng vòng quay tài sản | Không có biện pháp nào như vậy áp dụng cho việc tính toán ROA | ||
Các nhà đầu tư | Chỉ các nhà đầu tư cổ phần mới được xem xét để tính ROE. | ROA đo lường mức lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra với các khoản vốn được đầu tư bởi các cổ đông ưu đãi cổ đông vốn chủ sở hữu, và cả tổng đầu tư nợ khi tất cả các nhà đầu tư này cung cấp vốn cần thiết cho tổng tài sản. | ||
Điều chỉnh | Để tính ROE, không cần điều chỉnh tử số của tỷ số vì mẫu số chỉ là vốn chủ sở hữu, không phải là sự kết hợp của cả nợ và vốn chủ sở hữu. Vì không liên quan đến nợ nên tiền lãi không cần phải cộng ngược vào tử số. | Vì tổng tài sản được tài trợ bởi cả chủ sở hữu vốn chủ sở hữu và chủ nợ, nên nó được yêu cầu cộng lại chi phí lãi vay vào thu nhập ròng, nằm trong tử số của tỷ lệ. |
Phần kết luận
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu và tỷ suất sinh lời trên tài sản được gọi là tỷ suất sinh lời, vì chúng cho biết mức độ lợi nhuận do một doanh nghiệp tạo ra. Trong khi quyết định và kết luận về tình hình hoạt động và sức khỏe tài chính của một công ty, điều cần thiết là phải xem xét cả ROA và ROE, vì cả hai tỷ số này đều rất quan trọng.
Kết hợp các kết quả giúp chúng tôi có được một ý tưởng công bằng về hiệu quả của việc quản lý công ty của bất kỳ công ty nào.